Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho công ước về quyền trẻ em liên quan đến buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em

Được Đại hội đồng Liên hợp quốcthông qua ngày 25/5/2000 theo Nghị quyết A- RES - 54 -263; Có hiệu lực từ ngày 28/01/2002. Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001.

Các quốc gia thành viên Nghị định thư này,

Nhận định rằng, để thực hiện tốt hơn nữa những mục tiêu của Công ước về quyền trẻ em và những điều khoản của Công ước, đặc biệt là các Điều 1, 11, 21, 32, 33, 34, 35, 36, điều thích hợp là phải mở rộng các biện pháp mà các quốc gia thành viên cần tiến hành để bảo đảm cho trẻ em khỏi bị rơi vào hòan cảnh bị buôn bán, mại dâm và khai thác trong việc sản xuất văn hóa phẩm khiêu dâm.

Cũng nhận định rằng, Công ước về quyền trẻ em công nhận trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế hay làm bất cứ công việc gì có hại hay cản trở việc giáo dục trẻ em, hoặc nguy hại cho sức khỏe hay sự phát triển thể lực, tâm lý, tinh thần, đạo đức hay xã hội của trẻ.

Hết sức lo ngại trước tệ nạn buôn bán trẻ em quốc tế, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em ngày càng tăng.

Lo ngại sâu sắc về thực tế du lịch tình dục tiếp tục tràn lan mà trẻ em là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương, vì nó trực tiếp thúc đẩy việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.

Công nhận rằng, một số nhóm trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thương, trong đó có trẻ em gái, càng dễ gặp nguy cơ hơn về bóc lột tình dục, và rằng, trẻ em gái chiếm tỷ lệ cao trong số những người bị bóc lột tình dục.

Lo ngại, về việc ngày càng xuất hiện nhiều văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em trên Internet, các công nghệ đang phát triển khác và nhắc lại Hội nghị quốc tế về phòng chống văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em trên Internet, các công nghệ đang phát triển khác và nhắc lại Hội nghị quốc tế về phòng chống văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em trên Internet tổ chức ở Viên năm 1999 và nhất là kết luận của Hội nghị kêu gọi việc hình sự hóa trên toàn thế giới việc sản xuất, phân phối, xuất khẩu, chuyển giao, nhập khẩu, sở hữu có dụng ý, quảng cáo văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác và cộng tác chặt chẽ hơn nữa giữa các Chính phủ và ngành công nghiệp Internet.

Tin tưởng rằng, việc xóa bỏ nạn buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em sẽ được dễ dàng hơn bằng cách chấp nhận một cách tiếp cận toàn diện, giải quyết các yếu tố góp phần gây nên tình trạng đó, bao gồm sự kém phát triển, nghèo đói, cơ cấu kinh tế - xã hội bất bình đẳng, gia đình tan vỡ, thất học, sự di dân từ nông thôn ra thành thị, sự phân biệt đối xử về giới, hành vi tình dục vô trách nhiệm của người lớn, những tập tục truyền thống có hại, các cuộc xung đột vũ trang và buôn bán trẻ em.

Ảnh minh họa.

Tin tưởng rằng, những cố gắng để nâng cao nhận thức của nhân dân là cần thiết để giảm cầu về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em và tầm quan trọng của việc tăng cường sự hợp tác toàn cầu giữa những người thực hiện và cải tiến việc thi hành luật pháp ở cấp quốc gia.

Ghi nhận những điều khoản của các văn kiện pháp lý quốc tế có liên quan đến bảo vệ trẻ em, bao gồm Công ước La Hay về bảo vệ và hợp tác giữa các nước về con nuôi nước ngoài, Công ước La- Hay về các khía cạnh dân sự của nạn bắt cóc trẻ em quốc tế, Công ước La Hay về thẩm quyền luật pháp áp dụng, công nhận, thực hiện và hợp tác về trách nhiệm của cha mẹ và các biện pháp bảo vệ trẻ em và Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ việc ủng hộ Công ước về quyền trẻ em, thể hiện sự cam kết rộng khắp đối với sự thúc đẩy và bảo vệ các quyền của trẻ em.

Công nhận tầm quan trọng của việc thực hiện những điều khoản của Chương trình hành động về phòng chống buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em. Tuyên bố và chương trình hành động được thông qua tại Hội nghị thế giới về chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại được tổ chức tại Stốc - khôm từ ngày 27 đến 31 - 6 -1996 và những quyết định, khuyến nghị có liên quan của các cơ quan quốc tế thích hợp.

Cân nhắc đúng mức đến tầm quan trọng của truyền thống và giá trị văn hóa của mỗi dân tộc đối với việc bảo vệ và phát triển hài hòa của trẻ em.

Đã thỏa thuận như sau:

Điều 1

Các quốc gia thành viên phải cấm việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em như đã được quy định trong Nghị định thư này.

Điều 2

Trong phạm vi Nghị định thư này:

a. Buôn bán trẻ em có nghĩa là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người nào cho một người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay đồ vật gì khác.

b. Mại dâm trẻ em là việc sử dụng trẻ em trong các hoạt động tình dục đó lấy tiền hay đồ vật dưới bất kỳ hình thức nào.

c. Văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em nghĩa là bất kỳ sự trình bày nào, dù bằng phương tiện gì, về trẻ em đang tham gia vào các hoạt động tình dục một cách rõ ràng, thật sự hoặc mô phỏng, hay bất cứ sự trình bày nào về những bộ phận sinh dục của trẻ em cho các mục đích tình dục.

Điều 3

1. Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng, tối thiểu những hành động và hoạt động sau đây phải được coi là cấu thành tội phạm trong pháp luật hình sự, cho dù các tội phạm này được thực hiện trong nước hay ở nước ngoài, do cá nhân đơn phương thực hiện hay thực hiện một cách có tổ chức:

a. Trong khuôn khổ của buôn bán trẻ em như đã được xác định trong Điều 2, bao gồm:

(i) Việc cho, cung cấp hay chấp nhận trẻ em bằng bất cứ phương cách nào cho các mục đích:
- Bóc lột trẻ em về tình dục.
- Chuyển giao những bộ phận cơ thể của trẻ em vì lợi nhuận.
- Cưỡng bức lao động trẻ em.

(ii) Với tư cách là người trung gian, tranh thủ sự đồng ý một cách không lương thiện với việc nhận trẻ em làm con nuôi, vi phạm những quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế đang được áp dụng về con nuôi.

b. Cho, nhận, mua hay cung cấp trẻ em vì mục đích mại dâm như được xác định trong Điều 2.

c. Sản xuất, phân phối, phổ biến, nhập khẩu, xuất khẩu, chào mời, bán hay sở hữu văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em cho các mục đích nói trên, như đã được xác định trong Điều 2.

2. Theo các quy định của luật pháp của quốc gia thành viên các tội phạm tương tự cũng phải áp dụng cho một ý định thực hiện bất kỳ một trong những hành động này, sự đồng phạm vào bất kỳ một trong những hành động như vậy.

3. Mỗi quốc gia thành viên phải quy định những hình phạt thích hợp đối với các tội phạm đó, có xem xét đến tính chất nghiêm trọng của những tội phạm này.

4. Tùy theo quy định của luật pháp quốc gia mình, các quốc gia thành viên phải thực hiện những biện pháp thích hợp để xác định trách nhiệm pháp lý cho những hành vi phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều này. Tuỳ theo các nguyên tắc của pháp luật của quốc gia thành viên, trách nhiệm pháp lý đó có thể là hình sự, dân sự hay hành chính.

5. Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp pháp lý và hành chính thích hợp đó bảo đảm rằng, tất cả những người liên quan đến việc nhận trẻ em làm con nuôi phải hành động phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế đang được áp dụng về vấn đề này.

Điều 4

1. Mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp như vậy nếu thấy cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với các tội phạm được nói đến trong khoản 1 Điều 3 khi tội phạm này xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia thành viên này hay trên tàu thủy hoặc máy bay được đăng ký ở quốc gia đó.

2. Mỗi quốc gia thành viên có thể thực hiện các biện pháp như vậy nếu thấy cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với các tội phạm được nói đến trong khoản 1 Điều 3 trong những trường hợp sau:

a. Khi người bị coi là phạm tội là công dân của quốc gia đó, hay là người thường trú trên lãnh thổ của quốc gia đó.
b. Khi nạn nhân là công dân của quốc gia đó.

3. Mỗi quốc gia thành viên cũng phải thực hiện những biện pháp như vậy nếu cần thiết để xác định quyền tài phán với các tội phạm trên, khi người bị coi là phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia này và quốc gia thành viên khác với lý do rằng tái phạm là do công dân của quốc gia mình gây ra.

4. Nghị định thư này không loại trừ bất kỳ quyền tài phán hình sự nào được thực hiện theo luật pháp quốc gia với các tội phạm này.

Điều 5

1. Những tội phạm nói trong khoản 1 Điều 3 phải được đưa vào danh sách các tội phạm có thể bị dẫn độ trong bất cứ một hiệp định dẫn độ nào giữa các quốc gia thành viên và phải được đưa vào danh sách những tội phạm có thể bị dẫn độ trong mọi hiệp ước dẫn độ sau này có thể được ký kết giữa các quốc gia thành viên, theo những điều kiện được đề ra trong các hiệp ước đó.

2. Nếu một quốc gia thành viên coi việc dẫn độ phụ thuộc vào sự tồn tại của một hiệp ước mà nhận được một yêu cầu dẫn độ của một quốc gia thành viên khác mà giữa hai nước lại không có hiệp ước dẫn độ thư có thể coi Nghị định thư này như một cơ sở pháp lý về dẫn độ với các tội phạm như vậy. Sự dẫn độ phải tùy thuộc vào những điều kiện của luật pháp của quốc gia được yêu cầu.

3. Các quốc gia thành viên không coi việc dẫn độ phụ thuộc vào sự tồn tại của một hiệp ước phải công nhận những tội phạm như vậy là các tội phạm có thể bị dẫn độ giữa các quốc gia đó với nhau, tùy thuộc vào những điều kiện của luật pháp quốc gia được yêu cầu.

4. Những tội phạm như vậy phải được đối xử, với mục đích dẫn độ giữa các quốc gia thành viên, như thể chúng đã xảy ra không phải ở nơi tội phạm đã bị phát hiện, mà cả ở các lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu thực hiện quyền tài phán của họ theo Điều 4.

5. Nếu một yêu cầu về dẫn độ được nêu ra về một tội phạm được mô tả ở khoản 1, Điều 3 và nếu quốc gia thành viên được đề nghị không hoặc sẽ không dẫn độ trên cơ sở quốc tịch của người phạm tội thì quốc gia đó phải tiến hành những biện pháp thích hợp đó để trình trường hợp này lên các nhà chức trách có thẩm quyền để truy tố.

Điều 6

1. Các quốc gia thành viên phải dành cho nhau sự giúp đỡ nhiều nhất về việc điều tra hoặc các thủ tục tố tụng hình sự hay dẫn độ có liên quan đến các tội phạm nêu trong khoản 1, Điều 3, bao gồm sự trợ giúp trong việc thu thập những chứng cứ cần thiết cho các thủ tục tố tụng.

2. Các quốc gia thành viên phải thực hiện những nghĩa vụ của họ theo khoản 1 của điều này phù hợp với bất kỳ các hiệp định hay thỏa thuận nào về tương trợ tư pháp có thể có giữa các quốc gia. Trong trường hợp không có những hiệp định hay thỏa thuận như thế thì các quốc gia thành viên phải nỗ lực hỗ trợ lẫn nhau theo quy định trong luật pháp trong nước của họ.

Điều 7

Tuỳ những quy định của luật pháp quốc gia, các quốc gia thành viên phải:

a. Tiến hành các biện pháp để giữ hay tịch thu tuú theo tình hình cụ thể: 
(i) Các sản phẩm như vật liệu, tài sản và các công cụ khác được sử dụng để phạm tội hay tạo điều kiện phạm tội theo Nghị định thư này.
(ii) Tiền thu được từ những tội phạm đó.

b. Thực hiện những yêu cầu của một quốc gia thành viên khác để giữ hay tịch thu các sản phẩm hay tiền thu được nói đến trong mục a (i).

c. Tiến hành các biện pháp đóng cửa tạm thời hay vĩnh viễn những cơ sở sử dụng để phạm các tội này.

Điều 8

1. Các quốc gia thành viên phải tiến hành những biện pháp thích hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của những trẻ em là nạn nhân của các hành động bị cấm theo Nghị định thư này trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, đặc biệt bằng cách:

a. Công nhận sự dễ bị tổn thương của các nạn nhân là trẻ em và điều chỉnh những thủ tục công nhận các nhu cầu đặc biệt của các em, bao gồm cả những nhu cầu đặc biệt với cương vị người làm chứng.

b. Thông tin cho các nạn nhân là trẻ em về quyền, vai trò của các em và phạm vi, thời gian, tiến trình tố tụng và khuynh hướng phát triển của các vụ việc đó.

c. Cho phép trình bày các ý kiến, nhu cầu, mối quan tâm của những nạn nhân là trẻ em và những điều này phải được xem xét đến trong các thủ tục tố tụng hình sự ở những nơi mà quyền lợi cá nhân của các em bị ảnh hưởng theo cách thức phù hợp với quy định trong pháp luật quốc gia.

d. Cung cấp cho các nạn nhân là trẻ em những dịch vụ hỗ trợ phù hợp trong suốt quá trình tố tụng pháp lý.

e. Bảo vệ một cách phù hợp tính riêng tư và lai lịch của các nạn nhân là trẻ em và tiến hành các biện pháp theo đúng luật pháp quốc gia để tránh sự phổ biến một cách không phù hợp những thông tin có thể dẫn đến sự xác định lai lịch của các nạn nhân trẻ em.

f. Chuẩn bị trong các trường hợp thích hợp, cho sự an toàn của các nạn nhân là trẻ em cũng như của gia đình các em và những người làm chứng để họ khỏi bị đe dọa và uy hiếp.

g. Tránh những sự chậm trễ không cần thiết trong việc quyết định các trường hợp và việc thi hành những mệnh lệnh hay những sắc lệnh về bồi thường cho các nạn nhân là trẻ em.

2. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng việc không biết chắc chắn về tuổi thực của nạn nhân sẽ không cản trở việc tiến hành các cuộc điều tra hình sự, bao gồm cả những cuộc điều tra để xác định tuổi của nạn nhân.

3. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng quyền lợi tốt nhất của trẻ em phải là điều được quan tâm hàng đầu trong việc đối xử của hệ thống tư pháp hình sự với các trẻ em là nạn nhân của những tội phạm được mô tả trong Nghị định thư này.

4. Các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm đào tạo phù hợp, đặc biệt là đào tạo về pháp lý và tâm lý, cho những người làm việc với trẻ em là nạn nhân của những tội phạm bị cấm theo Nghị định thư này.

5. Trong những trường hợp phù hợp, các quốc gia thành viên phải thông qua những biện pháp để bảo vệ sự an toàn và tính trung thực của những người và tổ chức tham gia vào việc phòng ngừa hay bảo vệ và phục hồi các trẻ em là nạn nhân của những tội phạm như vậy.

6. Không có gì trong điều này được hiểu là có hại hay không nhất quán với những quyền của bị cáo được xét xử một cách công bằng, không thiên vị.

Điều 9

1. Các quốc gia thành viên phải thông qua hay tăng cường, thực hiện và phổ biến những văn bản pháp luật, biện pháp hành chính, chính sách và chương trình xã hội để phòng ngừa những tội phạm được nói đến trong Nghị định thư này, phải đặc biệt chú ý bảo vệ các trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thưong bởi những tội phạm đó.

2. Các quốc gia thành viên phải nâng cao nhận thức của người dân nói chung, bao gồm cả trẻ em, qua thông tin bằng tất cả các phương tiện thích hợp, giáo dục và đào tạo bằng các biện pháp phòng ngừa và các tác hại của những tội phạm được nêu ra trong Nghị định thư này. Trong việc thực hiện những nghĩa vụ của mình, theo Nghị định thư này, các quốc gia thành viên phải khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt của trẻ em và những nạn nhân là trẻ em, vào các chương trình thông tin, giáo dục và đào tạo, kể cả ở cấp độ quốc tế.

3. Các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả những biện pháp khả thi nhằm đảm bảo rằng, tất cả các hỗ trợ phù hợp cho những nạn nhân của các tội phạm như vậy được áp dụng, bao gồm sự hòa nhập đầy đủ của họ vào xã hội và sự hồi phục đầy đủ của họ về thể chất và tâm lý.

4. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng tất cả trẻ em là nạn nhân của những tội phạm được mô tả trong Nghị định thư này được tiếp cận đầy đủ các thủ tục tố tụng yêu cầu bồi thường về những tổn hại từ những người chịu trách nhiệm về pháp lý mà không có sự phân biệt đối xử nào.

5. Các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm cấm có hiệu quả việc sản xuất và phổ biến những tài liệu quảng cáo, tuyên truyền cho các tội phạm được mô tả trong Nghị định thư này.

Điều 10

1. Các quốc gia thành viên phải thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để tăng cường hợp tác quốc tế qua những thỏa thuận đa phương, khu vực và song phương để phòng chống, phát hiện, điều tra, khởi tố và trừng phạt những kẻ chịu trách nhiệm về các hoạt động liên quan đến buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em, văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em và du lịch tình dục trẻ em. Các quốc gia thành viên phải đẩy mạnh việc hợp tác và phối hợp quốc tế giữa các nhà chức trách, những tổ chức quốc gia và phi Chính phủ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác.

2. Các quốc gia thành viên phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế để hỗ trợ các nạn nhân là trẻ em phục hồi về thể lực và tâm lý, tái hòa nhập xã hội và hồi hương.

3. Các quốc gia thành viên phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế để giải quyết những nguyên nhân gốc rễ như sự nghèo đói và kém phát triển, góp phần làm cho trẻ em rơi vào hòan cảnh bị buôn bán, mại dâm, văn hóa phẩm khiêu dâm và du lịch tình dục trẻ em.

4. Các quốc gia thành viên phải muốn làm được như vậy phải có sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và những hỗ trợ khác thông qua các chương trình đa phương, khu vực, song phương hay những chương trình khác hiện có.

Điều 11

Không có điều nào trong Nghị định thư này ảnh hưởng đến bất cứ điều khoản nào dẫn đến việc thực hiện các quyền trẻ em dễ dàng hơn mà có trong:
a. Luật pháp của một quốc gia thành viên,
b. Luật pháp quốc tế có hiệu lực với các quốc gia thành viên ấy.

Điều 12

1. Mỗi quốc gia thành viên phải gửi báo cáo đến Ủy ban về quyền trẻ em sau khi Nghị định thư này có hiệu lực với quốc gia thành viên, để cung cấp những thông tin toàn diện về các biện pháp mà quốc gia thành viên đó đã tiến hành nhằm thực hiện những điều khoản của Nghị định thư này.

2. Sau khi nộp báo cáo toàn diện đó, mỗi quốc gia thành viên phải gửi báo cáo nêu trong báo cáo họ nộp cho Ủy ban về quyền trẻ em theo quy định tại Điều 44 Công ước bất kỳ những thông tin thêm nào liên quan đến việc thực hiện Nghị định thư này. Sau đó cứ 5 năm, các quốc gia thành viên phải gửi báo cáo một lần.

3. Ủy ban về quyền trẻ em có thể đề nghị các quốc gia thành viên cung cấp thêm những thông tin liên quan đến việc thực hiện Nghị định thư này.

Điều 13

1. Nghị định thư này để ngỏ cho bất kỳ quốc gia nào mà đã là quốc gia thành viên hoặc đã ký Công ước về quyền trẻ em, ký.

2. Nghị định thư này phải được phê chuẩn và để ngỏ cho bất kỳ quốc gia nào đã là thành viên hoặc đã ký Công ước về quyền trẻ em gia nhập. Các văn kiện phê chuẩn hay gia nhập phải được Tổng Thư ký Liên hợp quốclưu chiểu.

Điều 14

1. Nghị định thư này có hiệu lực sau 3 tháng, kể từ khi lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ 10.

2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Nghị định thư này sau khi nó có hiệu lực, Nghị định thư này có hiệu lực sau một tháng, kể từ ngày Tổng Thư ký lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hay gia nhập của quốc gia đó.

Điều 15

1. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có quyền rút khỏi Nghị định thư này vào bất kỳ thời điểm nào bằng một văn bản thông báo gửi cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Ngay sau đó, Tổng Thư ký sẽ thông báo cho các quốc gia thành viên khác của Công ước và các quốc gia đã ký Công ước. Việc rút khỏi Nghị định thư này sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ khi Tổng Thư ký Liên hợp quốcnhận được thông báo.

2. Việc bãi ước như vậy không có tác dụng làm mất đi những nghĩa vụ của quốc gia thành viên theo quy định tại Nghị định thư này, về bất kỳ hành động nào diễn ra trước ngày mà việc bãi ước có hiệu lực. Việc bãi ước như vậy cũng không làm phương hại, dù bất kỳ bằng cách nào, đến việc xem xét tiếp tục về bất kỳ vấn đề nào mà Ủy ban quyền trẻ em đang xem xét có liên quan đến quốc gia thành viên đó trước ngày việc bãi ước có hiệu lực.

Điều 16

1. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có quyền đề nghị sửa đổi Nghị định thư này và đệ trình đề nghị này cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Ngay sau đó, Tổng Thư ký thông báo những đề nghị sửa đổi cho các quốc gia thành viên, đồng thời đề nghị cho biết có tán thành hay không việc tổ chức một hội nghị giữa những quốc gia thành viên để xem xét và biểu quyết về các đề nghị đó. Nếu trong vòng 4 tháng kể từ ngày thông báo, có ít nhất một phần ba số quốc gia thành viên tán thành tổ chức một Hội nghị như vậy thì Tổng Thư ký triệu tập Hội nghị này dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Bất kỳ sửa đổi được chấp nhận bởi đa số các quốc gia thành viên có mặt và biểu quyết tại hội nghị được đệ trình để Đại hội đồng chấp thuận.

2. Mỗi sửa đổi bổ sung được thông qua theo khoản 1 Điều này chỉ có hiệu lực khi được Đại hội đồng Liên hợp quốcchấp nhận và được đa số 2/3 các quốc gia thành viên chấp nhận.

3. Khi một sửa đổi có hiệu lực, Nghị định thư có hiệu lực ràng buộc với những quốc gia thành viên đã chấp nhận nó, còn các quốc gia thành viên khác vẫn bị ràng buộc bởi những điều khoản của Nghị định thư này và mọi sửa đổi bổ sung trước đó mà họ đã chấp nhận.

Điều 17

1. Nghị định thư này được viết bằng các thứ tiếng A-rập, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, đều có giá trị chính thức như nhau, sẽ do Tổng Thư ký Liên hợp quốc lưu chiểu.

2. Tổng Thư ký Liên hợp quốc phải gửi tới tất cả các quốc gia thành viên của Công ước và những quốc gia đã ký Công ước bản sao có chứng thực của Nghị định thư này.

BBT