Quyền con người trong lĩnh vực văn hóa

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa” (Điều 41).

Nhà nước Việt Nam cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật Điện ảnh năm 2006, Luật Di sản văn hóa năm 2009, Luật xuất bản năm 2012, Luật Quảng cáo năm 2013..., tạo lập một hành lang pháp luật rộng mở, thuận lợi cho các hoạt động về bảo tồn di sản văn hóa, tôn trọng quyền tự do sáng tạo và tự do hoạt động văn hóa của các tổ chức, cá nhân, bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan…

Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, đoàn thể liên quan ở Trung ương và Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia rộng rãi vào hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, mở rộng giao lưu, tuyên truyền, giới thiệu di sản văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. 

Ngoài ra, nhiều Luật và Pháp lệnh khác liên quan đến lĩnh vực văn hóa như Bộ luật Hình sự sửa đổi; Luật Báo chí sửa đổi; Luật Xuất bản; Luật Bình đẳng giới; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ khuyến khích tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; đầu tư cho việc sưu tầm, nghiên cứu, giữ gìn, phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới. 


Ảnh minh hoạ.

Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền văn hóa về cơ bản được xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam không ngừng xây dựng và triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của người dân; khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn hoá; bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số, trong đó có bảo tồn tiếng nói và chữ viết. 

Nhà nước Việt Nam khuyến khích tự do trong sáng tạo nghệ thuật. Công tác sưu tầm, bảo tồn, phát huy di sản văn học, nghệ thuật của các dân tộc đạt được những kết quả thiết thực, đồng thời xuất hiện lực lượng sáng tác trẻ với những khả năng sáng tạo và sự đa dạng về phong cách.

Phong trào văn nghệ quần chúng cũng có bước phát triển tích cực với nhiều câu lạc bộ văn học, nghệ thuật ra đời, góp phần cổ vũ, động viên sự sáng tạo, khai thác, truyền bá các giá trị nghệ thuật cổ truyền và thưởng thức văn học, nghệ thuật, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân ở cơ sở. 

Việc đầu tư tu bổ di tích được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo trì và tôn tạo di tích luôn ổn định và tăng dần theo từng năm (trong giai đoạn 2012-2015, đã tu bổ, tôn tạo tổng thể được 229 di tích, khu di tích; hỗ trợ chống xuống cấp cho 635 di tích). Nhiều di tích được tu bổ, tôn tạo đang trở thành những sản phẩm văn hóa hoàn chỉnh, có sức hấp dẫn khách tham quan ở trong và ngoài nước, tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo thêm việc làm cho nhân dân địa phương.

Việt Nam có nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di sản tư liệu được UNESCO công nhận là di sản thế giới, trong đó có Quần thể di tích Cố đô Huế, Đô thị cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu Di tích Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, Thành Nhà Hồ, Quần thể Danh thắng Tràng An, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Nhã nhạc, Cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Quan họ Bắc Ninh, Hội Gióng, Hát Xoan, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản triều Nguyễn, Mộc bản kinh Phật Trúc Lâm, Châu bản Triều Nguyễn.

Hệ thống bảo tàng ở Việt Nam tiếp tục được kiện toàn theo Quy hoạch tổng thể đến năm 2020. Đến nay, cả nước có 147 bảo tàng (24 bảo tàng ngoài công lập), lưu giữ và trưng bày gần 3 triệu tài liệu, hiện vật, trong đó có gần 2.000 sưu tập hiện vật quý hiếm. Căn cứ Quy hoạch và định hướng phát triển bảo tàng đến năm 2020, một số dự án bảo tàng đã và đang được triển khai: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Văn học Việt Nam, Bảo tàng Sinh thái Hạ Long, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam...

Một số bảo tàng ở các địa phương mới được xây dựng trong vài năm gần đây đã làm thay đổi diện mạo thiết chế văn hóa ở địa phương và đang dần trở thành điểm sinh hoạt văn hóa có sức hấp dẫn. Các bảo tàng Trung ương và địa phương chủ động phối hợp với các nhà sưu tập tư nhân, các Câu lạc bộ và hội sưu tầm cổ vật để tổ chức triển lãm, trưng bày chuyên đề, triển khai nhiều hoạt động quy mô quốc gia, quốc tế trên lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh... qua đó tạo điều kiện để các nhà sưu tầm tư nhân có cơ hội chia sẻ, trao đổi thông tin nhằm nâng cao ý thức gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá.

Thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiều di sản văn hoá phi vật thể đặc sắc như các điệu múa, làn điệu dân ca, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền... đã được nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa dưới nhiều hình thức và lưu truyền.

Tính đến nay, trên cả nước đã kiểm kê được 39.366 di sản văn hoá phi vật thể, trong đó 121 di sản được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Hiện nay Hội đồng chuyên ngành cấp Bộ đã thông qua 618 hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú” đủ điều kiện lấy ý kiến của nhân dân trước khi trình Hội đồng cấp Nhà nước. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác đang tiếp tục được sưu tầm nghiên cứu, phục hồi, tổ chức trình diễn, trực tiếp góp phần xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa của cộng đồng. 

Chính phủ Việt Nam luôn có những chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, trong đó có các chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam.

Nhằm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương tập trung thực hiện điều tra, nghiên cứu, bảo tồn một số làng, bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc thiểu số, qua đó giúp đồng bào nhận thức giá trị văn hóa truyền thống, lựa chọn những yếu tố tiến bộ, phù hợp để bảo tồn, phát huy, góp phần xây dựng đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn. Từ năm 2006 đến nay, đã có 25 làng truyền thống tiêu biểu được bảo tồn, 50 lễ hội truyền thống được phục dựng; sản xuất và cung cấp sản phẩm văn hóa - thông tin cho 2.822 xã đặc biệt khó khăn, 345 đội thông tin lưu động tại các huyện miền núi khó khăn, 185 trường dân tộc nội trú; mua trang thiết bị hoạt động văn hóa - thông tin cho các đồn biên phòng trị giá 43,5 tỷ đồng.

Đặc biệt, ngành Văn hóa từ trung ương đến địa phương đã nghiên cứu và tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hoá mang tính sinh hoạt cộng đồng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như Ngày hội văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Bắc (11 lần); Ngày hội văn hoá, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc (07 lần); Ngày hội văn hoá, thể thao và du lịch dân tộc Khơ-me Nam Bộ (05 lần); Liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính (03 lần). 

Việt Nam đã tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho ngành thư viện. Hệ thống thư viện công cộng phát triển cả bề rộng và chiều sâu, đáp ứng nhu cầu đọc sách báo cho nhân dân. Các thư viện tỉnh, thành phố được xây dựng trụ sở mới hiện đại với số vốn đầu tư hàng chục tỷ đồng; một số thư viện cấp huyện được đầu tư xây dựng hàng tỷ đồng trở lên.

Dự án củng cố và phát triển hệ thống thư viện công cộng với kinh phí là 137,75 tỷ đồng đã cấp 1.479.000 bản sách cho 63 thư viện tỉnh, 1.493.000 bản sách cho 400 thư viện huyện; hỗ trợ xây dựng 30 thư viện huyện, tại các huyện vùng sâu, vùng xa; cấp trang thiết bị cho 38 kho sách thư viện tỉnh. Đến năm 2014, cả nước có 17.709 thư viện công cộng/phòng đọc sách, tủ sách, trong đó có 01 Thư viện quốc gia, 63 thư viện tỉnh, thành phố, 659 thư viện quận, huyện, thị xã, 2.456 thư viện xã, phường, thị trấn, 14.470 phòng đọc sách xã và cơ sở (làng, thôn, bản), 61 thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng. Bình quân số bản sách trong thư viện công cộng là 0,45 bản/người/năm. 

Như vậy, với hệ thống pháp luật về quyền văn hóa đã được ban hành và thực tiễn quá trình triển khai thực hiện, có thể khẳng định Việt Nam đã và đang nỗ lực cao trong hoạt động xây dựng thể chế và bảo đảm thực thi những nội dung về lĩnh vực quyền con người nói chung và quyền trong lĩnh vực văn hóa nói riêng.

Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp quốc về quyền văn hóa trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2013 rất ấn tượng trước sự đa dạng văn hóa giữa các vùng miền, các nhóm cộng đồng tại Việt Nam; đánh giá cao thành tựu Việt Nam đã đạt được trong bảo đảm và phát huy quyền văn hóa cho tất cả người dân.

BBT